Zearalenon (ZEN)còn được gọi là độc tố F-2. Nó được sản xuất bởi nhiều loại nấm fusarium khác nhau như Graminearum, Culmorum và Crookwellense. Độc tố nấm thải vào môi trường đất. Cấu trúc hóa học của ZEN được Urry xác định vào năm 1966 bằng phương pháp cộng hưởng từ hạt nhân, hóa học cổ điển và phép đo khối phổ và được đặt tên là: 6-(10-hydroxy-6-oxo-trans-1-decene)-β -Ranoic acid-lactone . Khối lượng phân tử tương đối của ZEN là 318, điểm nóng chảy là 165°C và có độ ổn định nhiệt tốt. Nó sẽ không bị phân hủy khi đun nóng ở 120°C trong 4 giờ; ZEN có đặc tính huỳnh quang và có thể được phát hiện bằng máy dò huỳnh quang; ZEN sẽ không được phát hiện trong nước, hòa tan S2C và CC14; Nó dễ hòa tan trong các dung dịch kiềm như natri hydroxit và dung môi hữu cơ như metanol. ZEN gây ô nhiễm ngũ cốc và các sản phẩm phụ của chúng trên toàn thế giới, gây thiệt hại lớn cho ngành trồng trọt và chăn nuôi, đồng thời gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với an toàn thực phẩm.
Tiêu chuẩn giới hạn Zen trong thực phẩm và thức ăn chăn nuôi
Zearalenoneô nhiễm không chỉ làm giảm chất lượng nông sản và thức ăn chăn nuôi mà còn gây thiệt hại lớn cho sự phát triển kinh tế. Đồng thời, sức khỏe con người cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi việc hấp thụ chất ô nhiễm ZEN hoặc thịt dư, các sản phẩm từ sữa và các thực phẩm có nguồn gốc động vật khác. Và bị đe dọa. “Tiêu chuẩn vệ sinh thức ăn chăn nuôi GB13078.2-2006” của đất nước tôi yêu cầu hàm lượng ZEN của zearalenone trong thức ăn hỗn hợp và ngô không được vượt quá 500 μg/kg. Theo yêu cầu của “Giới hạn độc tố nấm mốc trong thực phẩm GB 2761-2011” mới nhất ban hành năm 2011, hàm lượng zearalenone ZEN trong ngũ cốc và các sản phẩm của chúng phải nhỏ hơn 60μg/kg. Theo “Tiêu chuẩn vệ sinh thức ăn chăn nuôi” đang được sửa đổi, giới hạn nghiêm ngặt nhất của zearalenone trong thức ăn hỗn hợp dành cho heo con và heo nái non là 100 μg/kg. Ngoài ra, Pháp quy định lượng zearalenone cho phép trong ngũ cốc và dầu hạt cải là 200 µg/kg; Nga quy định lượng zearalenone cho phép trong lúa mì cứng, bột mì và mầm lúa mì là 1000 µg/kg; Uruguay quy định lượng zearalenone cho phép trong ngô. Lượng zearalenone ZEN cho phép trong lúa mạch là 200μg/kg. Có thể thấy, chính phủ nhiều nước đã dần nhận ra tác hại mà zearalenone mang lại cho động vật và con người nhưng vẫn chưa đạt được tiêu chuẩn giới hạn đã được thống nhất.
Tác hại củaZearalenone
ZEN là một loại estrogen. Sự tăng trưởng, phát triển và hệ thống sinh sản của động vật tiêu thụ ZEN sẽ bị ảnh hưởng bởi nồng độ estrogen cao. Trong số tất cả các loài động vật, lợn là loài nhạy cảm nhất với ZEN. Tác dụng độc hại của ZEN đối với lợn nái như sau: sau khi lợn nái trưởng thành bị nhiễm độc do ăn phải ZEN, cơ quan sinh sản của chúng sẽ phát triển bất thường, kèm theo các triệu chứng như loạn sản buồng trứng, rối loạn nội tiết; lợn nái mang thai đang trong giai đoạn ZEN Sẩy thai, sinh non hoặc có tần suất thai dị tật cao, thai chết lưu, thai yếu dễ xảy ra sau khi bị ngộ độc; lợn nái đang cho con bú sẽ giảm lượng sữa hoặc không có sữa; đồng thời, heo con uống sữa nhiễm ZEN cũng sẽ có các triệu chứng như chậm lớn do nồng độ estrogen cao, trường hợp nặng sẽ đói và chết.
ZEN không chỉ ảnh hưởng đến gia cầm, vật nuôi mà còn có tác dụng gây độc mạnh cho con người. ZEN tích tụ trong cơ thể con người, có thể tạo ra khối u, thu nhỏ DNA và khiến nhiễm sắc thể trở nên bất thường. ZEN cũng có tác dụng gây ung thư và thúc đẩy sự phát triển liên tục của các tế bào ung thư trong các mô hoặc cơ quan của con người. Sự hiện diện của độc tố ZEN dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở chuột thí nghiệm. Các thí nghiệm gia tăng cũng đã xác nhận điều này. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn suy đoán rằng sự tích tụ ZEN trong cơ thể con người gây ra nhiều bệnh khác nhau như ung thư vú hoặc tăng sản vú.
Phương pháp phát hiện củazearalenone
Vì ZEN có phạm vi ô nhiễm rộng và tác hại lớn nên công tác thử nghiệm của ZEN đặc biệt quan trọng. Trong số tất cả các phương pháp phát hiện của ZEN, những phương pháp sau được sử dụng phổ biến hơn: phương pháp sắc ký (các tính năng: phát hiện định lượng, độ chính xác cao, nhưng hoạt động phức tạp và chi phí cực cao); xét nghiệm miễn dịch liên kết với enzyme (tính năng: độ nhạy cao và năng lượng định lượng, nhưng hoạt động cồng kềnh, thời gian phát hiện dài và chi phí cao); phương pháp thử que thử vàng keo (đặc điểm: nhanh, dễ, chi phí thấp nhưng độ chính xác và độ lặp lại kém, không định lượng được); sắc ký miễn dịch định lượng huỳnh quang (tính năng: định lượng nhanh Đơn giản và chính xác, độ chính xác tốt, nhưng cần sử dụng thiết bị, thuốc thử của các nhà sản xuất khác nhau không phổ biến).
Thời gian đăng: 12-08-2020