Việc tách và tinh chế protein được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu và ứng dụng hóa sinh và là một kỹ năng vận hành quan trọng. Một tế bào nhân chuẩn điển hình có thể chứa hàng ngàn protein khác nhau, một số rất phong phú và một số chỉ chứa một vài bản sao. Để nghiên cứu một nội dung nhất địnhchất đạm, trước tiên cần phải tinh chế protein từ các protein khác và các phân tử không phải protein.
1. Phương pháp ướp muốichất đạm:
Muối trung tính có ảnh hưởng đáng kể đến độ hòa tan của protein. Nói chung, khi tăng nồng độ muối ở nồng độ muối thấp, độ hòa tan của protein sẽ tăng lên. Điều này được gọi là muối; khi nồng độ muối tiếp tục tăng, độ hòa tan của protein giảm ở các mức độ khác nhau và tách ra lần lượt. Hiện tượng này được gọi là muối ra.
2. Phương pháp xếp chồng điểm đẳng điện:
Lực đẩy tĩnh điện giữa các hạt nhỏ nhất khi protein ở trạng thái tĩnh nên độ hòa tan cũng nhỏ nhất. Điểm đẳng điện của các loại protein khác nhau là khác nhau. Độ pH của dung dịch điều hòa có thể được sử dụng để đạt đến điểm đẳng điện của protein Làm cho nó tích tụ, nhưng phương pháp này hiếm khi được sử dụng một mình và có thể kết hợp với phương pháp muối hóa.
3. Lọc máu và siêu lọc:
Lọc máu sử dụng màng bán thấm để tách các protein có kích thước phân tử khác nhau. Phương pháp siêu lọc sử dụng áp suất cao hoặc lực ly tâm để làm cho nước và các phân tử chất tan nhỏ khác đi qua màng bán thấm, trong khichất đạmcòn sót lại trên màng. Bạn có thể chọn các kích thước lỗ khác nhau để chặn các protein có trọng lượng phân tử khác nhau.
4. Phương pháp lọc gel:
Còn được gọi là sắc ký loại trừ kích thước hoặc sắc ký rây phân tử, đây là một trong những phương pháp hữu ích nhất để tách hỗn hợp protein theo kích thước phân tử. Vật liệu đóng gói được sử dụng phổ biến hơn trong cột là gel glucose (Sephadex ged) và gel agarose (gel agarose).
5.Điện di:
Trong cùng điều kiện pH, các loại protein khác nhau có thể được tách ra do trọng lượng phân tử khác nhau và điện tích khác nhau trong điện trường. Điều đáng chú ý là điện di đẳng điện, sử dụng chất ampholyte làm chất mang. Trong quá trình điện di, ampholyte tạo thành gradient pH được thêm dần từ điện cực dương sang điện cực âm. Khi protein có điện tích nhất định bơi trong đó, chúng sẽ chạm vào nhau. Vị trí pH của điểm điện không liên tục và phương pháp này có thể được sử dụng để phân tích và điều chế các loại protein khác nhau.
6. Sắc ký truyền thông ion:
chất truyền ion bao gồm chất truyền cation (như carboxymethyl cellulose; CM-cellulose) và chất truyền anion (diethylaminoethyl cellulose). Khi đi qua cột sắc ký truyền ion, protein có điện tích trái dấu với tác nhân truyền ion sẽ được hấp phụ trên tác nhân truyền ion, sau đó được hấp phụchất đạmđược rửa giải bằng cách thay đổi độ pH hoặc cường độ ion.
7. Sắc ký ái lực:
Sắc ký ái lực là một phương pháp cực kỳ hữu ích để tách protein. Thường chỉ cần một bước để tách một loại protein nhất định được tinh chế khỏi hỗn hợp protein lộn xộn có độ tinh khiết cao.
Phương pháp này dựa trên liên kết đặc hiệu chứ không phải liên kết cộng hóa trị của một số protein nhất định với một phân tử khác gọi là phối tử (Ligand).
Nguyên tắc cơ bản:
Protein tồn tại dưới dạng hỗn hợp lộn xộn trong các mô hoặc tế bào và mỗi loại tế bào chứa hàng nghìn protein khác nhau. Do đó, sự phân biệt giữa các protein là một phần quan trọng của quá trình sinh hóa và không chỉ có nó. Hoặc một tập hợp các phương pháp làm sẵn có thể loại bỏ bất kỳ loại protein nào khỏi hỗn hợp protein lộn xộn, vì vậy một số phương pháp thường được sử dụng kết hợp.
Thời gian đăng: Nov-05-2020